Các
Linh Mục Chánh Sở:
Trước khi viết
về các linh mục đã từng làm chánh sở họ đạo Bãi Xan, chúng tôi xin
nói đến những sắc chỉ cấm đạo cũng như liệt kê triều đại các vua từ
thời Trịnh Nguyễn phân tranh về sau nầy để người đọc hiểu thêm những
mốc lịch sử quan trọng có liên quan đến sinh hoạt trong họ đạo Bãi
Xan.
Tài liệu sưu tập được chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Xin các vị
trưởng thượng chỉ bảo thêm.
Ngô Thanh Đế
(24-1-2005)
Niên Biểu Các Triều Đại (1802 – 1945) (1)
Gia Long: 1802-1819
Minh Mạng: 1820-1848
Thiệu Trị: 1840-1847
Tự Đức: 1847-1883
Dục Đức: 1883 (3 ngày)
Hiệp Hoà: 1883 (6 tháng)
Kiến Phúc: 1883-1884
Hàm Nghi: 1884-1885
Đồng Khánh: 1886-1888
Thành Thái: 1889-1907
Duy Tân: 1907-1916
Khải Định: 1916-1925
Bảo Đại: 1926-1945
Các Sắc Lệnh
Cấm Đạo Dưới Thời: Minh Mạng, Thìệu Trị và Tự Đức
(2)
Lịch sử Giáo Hội Việt Nam ghi nhớ tất cả 53
Sắc chỉ chính thức do các chúa (hai dòng họ Trịnh, Nguyễn: trong Nam
ngoài Bắc), do nhà Tây Sơn và do các vua: Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự
Ðức ban hành nhằm khai trừ và tiêu diệt đạo Thiên Chúa. Đây chúng
tôi chỉ ghi lại những lệnh cấm đạo của vua Minh Mạng, Thiệu Trị và
Tự Đức để đối chứng với những sinh hoạt trong Họ Đạo Bãi Xan
1. Vua Minh Mạng (1820-1840): 7
Sắc chỉ:
Các sử gia Âu Châu khi
viết về những cuộc bách hại tôn giáo tại Việt Nam thường tặng vua
Minh Mạng danh xưng: "Néron của Việt Nam", vì Hoàng đế Néron hồi xưa
khét tiếng tàn bạo hung dữ trong những cuộc lùng bắt đạo Công Giáo
tại thủ đô Roma và trong đế quốc La Mã. Thực ra trong tổng số 117 vị
Thánh Tử Ðạo Việt Nam, một nửa (58 vị) đã bị hành quyết trong vòng
20 năm nhà vua Minh Mạng cầm quyền, đặc biệt vào hai năm 1838-1839.
Việc cấm đạo thời vua
Minh Mạng bắt đầu vào năm Ất Dậu 1825 khi 1 chiếc tàu buôn Pháp ghé
bến Đà Nẳng, một giáo sĩ tên là Rogerot ở lại đi giảng đạo khắp nơi.
Vua Thánh Tổ (Minh Mạng) nhân dịp nầy mới ra dụ cấm đạo và truyền
cho các quan phải khám xét các tàu bè của ngoại quốc ra vào cửa bể.
Trong dụ nói rằng: “Đạo Phương Tây là tả đạo, làm mê hoặc lòng
người và hủy hoại phong tục, cho nên phải nghiêm cấm để khiến người
ta theo chính đạo.”
Cấm đạo: vua Minh Mạng
cấm một cách khoa học:
- Một đàng cho lệnh tập
trung về Huế tất cả các số Linh mục Thừa sai ngoại quốc. Bề ngoài
nói khéo là nhà vua cần đến các vị để dịch sách ngoại ngữ ra tiếng
Việt, nhưng thực ra là để cầm chân các nhà truyền đạo, không cho họ
hoạt động và liên lạc với giáo đoàn. Trong khi đó chờ có cơ hội có
tàu ngoại quốc cập bến là đẩy số Thừa sai này về nước, đồng thời
không cho vị Thừa sai mới nào được phép nhập cảnh Việt Nam.
- Ðàng khác tiêu diệt
các cơ sở, các tổ chức Công Giáo địa phương, nhất là căng màn lưới
kiểm soát gắt gao để lùng bắt các đạo trưởng người bản xứ.
Nhà vua đã ký 7 Sắc
lệnh nghiêm cấm vào những năm 1825, 1826, 1830, 1833, 1834, 1836 và
1838. Biết trong giáo lý đạo Công Giáo có "10 điều răn" và nhiều lễ
cử hành trong năm, ngày 15/07/1834, vua cho công bố một đạo luật
trong đó gồm 10 khoản, lấy từ triết học Khổng Tử đem áp dụng vào xã
hội Việt Nam để dạy đạo làm người. Nội dung: về cương vị con người,
lương tâm ngay thẳng, tự trọng bản lĩnh, nền tảng kinh tế, thuần
phong mỹ tục, giáo dục giai cấp, vấn đề văn hóa, hãm dẹp tình dục,
tôn trọng pháp luật và quãng đại với tha nhân. Ðạo luật này được
niêm yết trên khắp mọi nẻo đường, bắt dân chúng phải học tập và tuân
hành. Mộng của nhà vua là để cho đầu óc người dân khỏi bị tiêm nhiễm
các thứ giáo lý ngoại bang, riêng với người Công Giáo là để thay thế
cho 10 giới răn đạo Chúa.
Ngoài ra các Quan
trong nước làm hai Kiến nghị (năm 1826 và 1830) yêu cầu nhà vua
thẳng tay tiêu diệt đạo trưởng Thiên Chúa Giáo bằng án tử hình, viện
cớ rằng: các vị Thừa sai tổ chức từng xứ đạo, có nghĩa là chia nước
ra thành nhiều địa hạt chỉ huy như một chính quyền và giáo dân triệt
để tuân theo. Những vụ tàn sát ở Nghệ An, ở làng Dương Sơn: Linh
mục, giáo dân bị bắt, bị xử! Nhất là tại Nam Ðịnh do bàn tay khát
máu của Thống Ðốc Trịnh Quang Khanh. Cuối năm 1837 ông bị nhà vua
triệu về Kinh khiển trách nặng lời, vì chưa thẳng tay với Cộng đoàn
Công Giáo miền Trung Châu và Duyên Hải Bắc Việt là hai địa điểm từ
xưa đến nay vẫn là trung tâm Công Giáo phồn thịnh. Từ Huế trở về Nam
Ðịnh, Trịnh Quang Khanh mang theo món quà 40 ảnh Thánh Giá cỡ lớn,
quà của vua trao tặng, và 6 ngàn quân binh. Ảnh Thánh Giá được mang
đặt khắp các cửa ngõ trong thành phố, hay là về sau di chuyển trong
các họ đạo mỗi khi có các cuộc hành quân bách hại, trong khi đó từng
ngàn quân mới được tiếp viện chạy đi bao vây khắp nơi, xua hết mọi
gia đình Công Giáo ra ngoài, ép buộc họ phải bước lên ảnh Thập Giá,
và bước lên ảnh Thập Giá có nghĩa là từ bỏ đạo thánh. Ba năm cuối
đời Minh Mạng là những năm đau khổ nhất cho Giáo Hội Bắc Việt thời
đó. Ðức Giám Mục Retord, Hội Thừa Sai Paris, diễn tả: "Không thể
trốn thoát được nữa, vì không còn chỗ nào tối đủ để tránh né trăm
nghìn con mắt rình rập"!
2. Vua Thiệu Trị (1840-1847: 2
Sắc Lệnh:
Sang đời vua Thiệu Trị
cuộc bách hại vẫn tiếp tục, nghĩa là vua vẫn để cho thi hành những
sắc lệnh đã được công bố đời vua Minh Mạng, mặc dầu trong một vài
địa phương đã có phần giảm độ gắt gao. Tại Phúc Nhạc (Ninh Bình) Nữ
Thánh Ine Lê Thành (tức bà Thánh Ðê, vị nữ Thánh duy nhất trong 117
Thánh Tử Ðạo) bị bắt, vì can tội chứa chấp "đạo trưởng", tức hai
linh mục Thừa sai Berneux và Galy. Bà đã anh dũng xưng đạo và cam
chịu mấy cuộc tra tấn dã man đến chết trong tù. Cũng như Linh Mục
Phêrô Khanh bị trảm quyết năm 1842 và Thánh Mattêô Lê Văn Gẫm bị xử
năm 1847. Mãi cho tới 1847, sau khi thất bại trong cuộc tranh chấp
với đoàn tầu Pháp tại Cửa Hàn, vua phản ứng bằng cách đổ hết tội lỗi
trên đầu người Công Giáo, và ngày 3/05/1847 vua ban hành sắc lệnh
lùng bắt các linh mục Thừa Sai ngoại quốc.
3. Vua Tự Ðức (1847-1883): 13
Sắc lệnh:
Nếu tính số Sắc lệnh
bắt đạo, dưới thời Tự Ðức lên tới 13 Sắc lệnh ký vào những năm 1848,
1851, 1855, riêng trong năm 1857: 4 Sắc lệnh; năm 1859: 3 Sắc lệnh;
và năm 1860: 4 Sắc lệnh sau cùng. Nhiều lệnh như thế minh chứng ý
chí nhà vua muốn tận diệt đạo Thiên Chúa bằng mọi giá, và tận diệt
suốt trong 30 năm chấp chính. Chúng ta sẽ thấy nội dung những Sắc
lệnh đó khủng khiếp tới mức nào!
- Ðạo Công Giáo được
định nghĩa không những như một "Tả Ðạo" mà còn tệ hơn nữa: như một
tôn giáo xấu xa "một dịch tễ" (Sắc lệnh: 7/06/1857).
- Do đó lệnh vua là các
cơ quan chính quyền phải ráo riết bài trừ:
- Lệnh cho các xã ủy,
cai tổng (Sắc lệnh: Tháng 5 năm 1857): Ai không tuân theo sẽ bị cách
chức (Sắc lệnh 7/06/1857).
- Lệnh cho Triều đình
và các quan địa phương (Sắc lệnh 24/08/1857).
- Phải bắt tất cả các
tầng lớp Công Giáo:
- Hết mọi thanh niên
trên 15 tuổi phải trình diện thường xuyên theo thời gian nhất định (Lệnh
17/01/1860). Người Công Giáo, dù học giỏi, có khả năng, cũng không
được bổ nhiệm giữ chức vụ nào (Sắc lệnh 18/09/1855).
- Ðặc biệt giới ngư phủ:
vì họ luôn luôn di chuyển và thường là chỗ ẩn náu cho các đạo trưởng
(Sắc lệnh 18/09/1855).
- Ðặc biệt giới ngư
phủ: vì họ luôn luôn di chuyển và thường là chỗ ẩn náu cho các đạo
trưởng (Sắc lệnh 18/09/1855).
- Những người chứa chấp
đạo trưởng sẽ bị phân thây và buông sông (Sắc lệnh 30/03/1851).
- Giáo dân không chịu
đạp lên Thánh Giá sẽ bị khắc hai chữ "Tả Ðạo" trên mặt và đi đầy
biệt xứ (Sắc lệnh 18/09/1855). Ai cố chấp xưng đạo: đàn ông sẽ bị
cưỡng bách tòng quân, đàn bà bị tuyển làm nội trợ cho các quan (Sắc
lệnh 7/06/1857).
- Bắt các thành phần
trong Hội đồng giáo xứ (Sắc lệnh tháng 10/1859).
- Binh sĩ Công Giáo
không đạp ảnh Thánh Giá sẽ bị giải ngũ, bị khắc hai chữ Tả Ðạo và bị
đầy chung thân (Sắc lệnh Tháng 12/1859).
- Giới Quan lại Công
Giáo: cả những ai đã chối đạo cũng bị cất chức. Những ai trung kiên
sẽ bị trảm quyết (Sắc lệnh 15/12/1859).
- Các Nữ tu: không được
cấp giấy thông hành để di chuyển ngoài địa phương mình đang ở, vì họ
là những liên lạc viên đắc lực. Ai không tuân lệnh sẽ bị: tù chung
thân, hay làm nội trợ cho các quan (Sắc lệnh 17/01/1860 và Sắc lệnh
tháng 7/1860).
- Các Linh mục Việt
Nam: đạp Thánh Giá hay không đều bị phân thây để nêu gương; Ngoại
quốc: bị trảm quyết, đầu phải treo luôn trong 3 ngày, rồi buông sông
hay ném xuống biển (Sắc lệnh 15/09/1855).
- Các cơ sở Công Giáo
(nhà thờ, nhà xứ, tu viện, nhà trường) bị đốt phá và tiêu hủy (Sắc
lệnh 18/09/1855 và Sắc lệnh 8/12/1857). Nhất là cơ sở tại Vĩnh Trị:
phải bình địa hóa triệt để (Sắc lệnh 1/12/1857).
Những khổ hình dã
man nhất: Phân sáp (1860): gồm 5 khoản:
- Khoản 1: Hết mọi
người theo đạo Thiên Chúa, bất cứ nam nữ, giầu nghèo, già trẻ đều bị
phân tán vào các làng bên lương.
- Khoản 2: Tất cả các
làng bên lương có trách nhiệm canh gác những tín hữu Công Giáo: cứ
năm người lương canh gác một người Công Giáo.
- Khoản 3: Tất cả các
làng Công Giáo sẽ bị phá bình địa và tiêu hủy. Ruộng đất, vườn cây,
nhà cửa sẽ bị chia cho các làng bên lương lân cận, và các làng bên
lương này có nhiệm vụ phải nộp thuế hằng năm cho Chính Phủ.
- Khoản 4: Phân tán nam
giới đi một tỉnh, nữ giới đi một tỉnh khác, để không còn cơ hội gặp
nhau, con cái thì chia cho những gia đình bên lương nào muốn nhận
nuôi.
- Khoản 5: Trước khi
phân tán, tất cả giáo dân nam nữ và trẻ con đều bị khắc trên má trái
hai chữ Tả Ðạo và trên má bên phải tên tổng, huyện, nơi bị giam giữ,
như thế không còn cách nào trốn thoát.
Các Linh mục chánh sở họ Bãi Xan:
Cha Điền (1825-1840)
Cha Gioan Thiềng (1840-1846)
Cha Lôrensô Lân (?)
Cha Thánh Philiphê Minh
(1850-1852)
Cha Phêrô Tuyết (1854-1860)
Cha Phanxicô Nhơn (1860)
Cha Martin Hiển (?)
Cha A. Claude Péguet (1865-1871)
Cha Thịnh (RP Thinselin) (1871-1877)
Cha Hamm (1877)
Cha Báu (RP Leprince) (1877-1891)
Cha Lân (RP Bourgeois) (1891-1901)
Cha Ba (RP Bar) (1901-1911)
Cha Lộ (1911-1927)
Cha Thông (1928)
Cha Thơm (1928-1929)
Cha Thiên (1929-1939)
Cha Tứ (1939)
Cha Duông (1940-1948)
Cha Nhạn (1949)
Cha Thanh (1949-?)
Các Cha về sau nầy
Cha Điền (1825-1840)
Trong số các linh mục đến Bãi Xan giúp họ
thì có cha Ðiền là người đầu tiên có cất nhà ở lâu. Có người nói cha
Điền thuộc Dòng Phanxixô, song không chắc lắm, lại cũng không ai nhớ
người đến Bãi Xan khi nào, mà chắc một đìều là cha Ðiền đến Bãi Xan
trước cơn bắt đạo dử dằn thời vua Minh Mạng, năm 1832 vì trước cơn
bắt đạo, tại Bãi Xan đã có một nhà thờ do cha Điền cất rồi. Tới lúc
bắt đạo phải phá đi, đó là vào năm 1833. Nhà thờ nầy lợp lá, cất
theo lối cao cẳng giống nhà người Thổ, cất chổ bên hong khu nhà bếp
của các cha bây giờ. Các bổn đạo lớn nhỏ đã chung lo cất nhà thờ ấy
tùy phận sự mỗi người. Còn muốn cho ghe dể lui tới và nhứt là cho có
nước uống thấu đến nhà cha, thì họ đào thêm rạch Giồng Tượng vô thấu
con giồng chừng 400 thước nữa. Dân chúng thì bỏ công còn những người
có của dư dả như ông Ðiểu, ông hương Nhu, ông Trùm Tường thì nuôi ăn
cho bọn làm đất.
Lo việc thờ phượng Chúa
vừa yên trong họ, kế có chiếu chỉ bắt đạo, nhằm mồng 6 tháng giêng
1833, rồi có lính huyện Vũng Liêm sai đến triệt hạ Thánh đường Bãi
Xan. Ðến khi lính phá xong đi mất thì bổn đạo lật đật chôn cột nhà
thờ dưới ao kế bên, có ý để sau cất nhà thờ lại, song sau 30 năm bắt
đạo, lúc cha Hiển vào đến Bãi Xan, thì bổn đạo dở cột đem lên, mà
cây mục hết, chẳng còn dùng được việc gì nữa.
Năm 1830, cố Du (R. P.
Marchand (3)) có đến thăm họ Bãi Xan và ở chơi ít ngày
với cha Điền. Đến năm 1834, trong khi xãy ra cơn bắt đạo ở Cái Nhum
thi cố Du có ẩn trốn ở Bãi Xan một thời gian. rồi người lần đi xuống
miệt Giồng Rùm, Thâu Râu, Rạch Rập.
Còn cha Phanxicô Xavie
Thán, trước đã bị đày ở Long Xuyên, cũng có tới ở Bãi Xan với cha
Ðiền một ít lâu, vì có lãnh đến cầm đầu rửa tội cho ông Hương sư Tám
sanh năm 1834.
Vốn cha Ðiền trước khi
đến Bãi Xan thì người làm việc trong họ Ðất Ðỏ, ngày nọ người qua
Lái Thiêu viếng Ðức Cha ở đó thì người gặp hai người học Latinh, mà
thầy Hạp một mình ở tại Búng giúp cha Giáo. Ðức cha (Monseigneur
Taberd) muốn thử hai người coi tánh ý thể nào, thì giao cả hai cho
cha Ðiền mà đem về Bãi Xan. Lúc ấy thầy Hạp đã được 30 tuổi và đã
chịu đến chức 4 rồi, còn người kia tên Châu, 20 tuổi, quê ở Ðất Ðỏ
và chưa có chịu chức nào.
Khi cả hai vào đến Bãi
Xan thì thầy Hạp làm thầy dạy con nít, còn chú Châu lo việc làm từ,
kêu là từ Chua. Song, hai người học trò Latinh nầy không theo hết
con đường Chúa gọi mà ra làm bổn đạo thường. Cả hai đều cưới vợ ở
Bãi Xan và lập nên gia thất đông đắn. Từ Chua có một con gái đi tu
nhà phước Cái Mơn. Và hai người Latinh nầy hằng ngày ở trung tín với
cha Ðiền lắm và lo lắng mọi việc cho cha đến khi người qua đời năm
1840.
Vậy cha Ðiền đã ở Bãi
Xan gần 15 năm trọn, đến cơn bắt đạo phá rối, cha ở trong nhà
không
yên nên vào trong nhà các chức (những ông biện) mà trốn ẩn,
như nhà ông Hương Nhu và ông Trùm Tường con ông cả Ðẩu.
Vì Cha Điền rất được Lê
Văn Khôi tín nhiệm nên thỉnh thoảng có liên lạc với người để xin ý
kiến nên khi Ngụy Khôi thất trận triều đình mới nghi cho bổn đạo
theo phe Ngụy Khôi nên có một số bổn đạo vì lo sợ phải bỏ Bãi Xan
trốn đi ở chung với kẻ ngoại hoặc sang làng khác mà lẩn tránh.
Lúc ấy cha phải cử hành
thánh lễ trong nhà riêng của bổn đạo, ngoài đưòng thì cho người canh
gác cẩn thận để nếu có dấu hiệu khả nghi thì lật đật góp đồ thờ vô
trong rương đem dấu liền xuống đất. Năm 1840, cha
Điền qua đời tại
Bãi Xan. Xác được chôn nơi đất thánh của họ đạo.
Đến năm 1887, Cha
sở Báu (R. P. Leprince) muốn lấy cốt Cha Điền đem vào trong nhà thờ
nhưng khi đào lên thì chỉ tìm được có ảnh chuộc tội mà Cha Điền mang
khi chết nên Cha Báu cho lệnh gom hết những di vật của Cha Điền và
của Cha Hiển lại chôn chung với hài cốt của cố
Chính Hoà
(R. P. Borelle) trong nhà thờ, lúc
bây giờ ở gần mé sông Cái. Sau được cải táng một lần nữa về chôn
trong nghĩa địa Bãi Xan hiện tại.
Cha Gioan Thiềng
(1840-1846)
Cha Thiềng đến trông coi họ Bãi Xan từ năm
1840 đến năm 1846. Trước khi đến Bãi Xan thì người ở Cái Nhum lo coi
một nhà in nhỏ. Tại Bãi Xan, cha thường ngày ở ẩn tại nhà ông Trùm
Tường là hương cả trong làng. Khi có ai đến rước cha đi ban phép cho
kẻ liệc thì người hay mặc áo dân, trên vai thì vác cái cần câu mà
đi. Đến những nơi có ao vũng thì người giả bộ ngừng lại câu cá để
che mắt người qua lại. Khi rảnh rổi Cha hay làm việc lặc vặt ngoài
vườn. Mỗi tuần cha chỉ làm lễ một lần vào ngày Chúa nhật mà thôi.
Khi quân Pháp chiếm
toàn cỏi Nam kỳ thì cha bị các quan Nam bắt và bị lên án tử hình tại
Mỹ Tho nhưng sau, vì cha là người già cả nên án đưọc đổi là tù chung
thân và bị đày ở Bà Rịa. Người chết năm 1861 sau nhiều năm mang gong
cùm cực khồ.
Cha Lôrensô Lân:
Cha Lân đến Bãi Xan từ Mặc Bắc lúc đầu đời
vua Thiệu Trị. Thấy việc bắt đạo có hơi lơ là nên người rất hăng sai
trong việc mang kẻ ngoại trở lại đạo. Tuy nhiên, chẳng bao lâu thì
lệnh cấm đạo được ban hành lại và còn dử dằn hơn lúc trước nữa.
Giúp cha Lân có thầy
Hiển là người đã chịu chức thánh rồi và ông Trùm Tường. Ông Trùm
Tường chẳng những nuôi cha Lân mà còn là một ông Trùm hết sức sốt
sắng nữa. Mỗi đêm ông hay đi thăm từng gia đình để xem họ đã đọc
kinh chung chưa. Ông cũng là người ngăn không cho người ngoại đến cư
ngụ tại Bãi Xan, sợ gây khó khăn cho các bổn đạo. Ông đã dâng cúng
khá nhiều ruộng đất của mình cho nhà thờ để gây huê lợi lo việc thờ
phượng Chúa. Ông qua đời vào năm 1854.
Cha Thánh Philiphê
Minh (1850-1852)
Trong thời kỳ cấm đạo của vua Thiệu Trị, Đức
Cha Dominicô (Mgr Lefèvre) phải trốn ẩn trong các tỉnh trên thì
người để cố Chính Hoà (Cha Borelle) lo việc coi sóc các cha trong
các tỉnh dưới. Cha Borelle ở Cái Nhum lo việc dạy dổ các trẻ em để
gởi về học trường Latinh bên Lào. Còn cha Minh thì có nhiệm vụ đi
ban phép Thêm Sức các nơi. Khi đến Bãi Xan năm 1850, thì Cha Minh ở
trong nhà ông Câu Tỵ hay nhà thầy Thanh ở rẩy trên. Cha Minh ở Bãi
Xan được khoảng 3 năm. Trong thời kỳ nầy, dưới sự coi sóc của Ông Cả
Huyên, bổn đạo có xây một nhà thờ nhỏ lợp lá gần nhà bà Xuyên. Vì
muốn che mắt thiên hạ nên bà có để tầm ở đó nhưng thật sự là nơi mà
Cha Minh thường làm lễ Misa. Giúp lễ cho cha Minh có trò Bình, là
học trò của cha Minh sau đi tu làm linh mục. Cha Minh hay đi đánh
chim cu để giải trí khi rảnh rổi. Năm 1952, Cha Minh được bề trên
đổi xuống Mặc Bắc thay cha Lựu và bị quan bắt tại nhà ông Trùm Lựu
trong họ đạo nầy.
Cha
Phêrô Tuyết (1854-1860)
Năm 1854, khi Cha Minh bị bắt tại nhà Ông Trùm
Lựu thì giới chức trong họ ai cũng đều lo sợ cho chính mình. Ai cũng
biết là hể giấu ẩn các cha thì chỉ có liều mình chết mà thôi nên các
cha phải đổi nhà luôn để tránh gây họa cho một người. Trong thời
gian nầy, có bà Tô Thị Thọ dâng nhà thờ 20 mẫu đất của người em là
ông cai Thôn Lý, chết không con cái còn bà vợ là bà Nguyễn thị Sử
thì có chồng khác. Năm 1855, bà con của bà Mỹ dâng thêm cho thánh
đường 2 mẫu ruộng và một chổ giồng làm đất thánh họ đạo hiện nay
(đất của Bà Đài).
Đến tháng 7 năm 1860,
là lúc bắt đạo đáng sợ nhất, đang lúc cố Chính Hoà
(cha
Chính Borelle) cấm phòng cho các
cha bản xứ là cha Tuyết, cha Nhơn, cha Hiển trong nhà ông Mùa bà Kẹo
thì thình lình cố Chính Hoà lâm trọng bệnh. Sau ít ngày, sau khi
chịu các bí tích sau hết thì người trút hơi thở cuối cùng tại nhà
nầy. Để tránh kẻ ngoại dòm ngó, mọi sự tẩm liệm được thực hiện ban
đem. Chẳng mai, chiếc hòm mua lại quá ngắn nên thầy Thoại phải lựa
trong nhà một bộ ván tốt bằng gỗ để đógn một cái hòm mới mà chôn xác
cố Borelle. Chôn xác cũng chôn ban đêm trong vườn hai ông bà nầy và
để tránh sự tò mò, ông bà trồng trên mã một đám rau râm và một lảng
gừng cho khuất. Năm 1887, Cha sở Báu (R.P. Leprince) lấy hài cốt cố
chính Hoà đem về trong nhà thờ. Còn về cây gậy vàng trong mấy di vật
của cố Borelle thì bị trộm lấy mất.
Cha
Phanxicô Nhơn (cũng gọi là Cha Hương) - 1860:
Trong năm 1860 nầy có nhiều hương chức lớn
trong họ bị bỏ tù ở Vĩnh Long như: Ông cả Quế, Ông Trùm Văn,
Ông Thôn Ngởi, Ông Biện Tựu. Những ông chức khác như: ông Câu Tứ,
ông Phó Thuần, ông Hoà Sương thì bị giam trong nhà Cả Lập ở Đức Mỹ.
Ông nội cha Phú, ông Cả Sĩ, ông trùm Hiệp với hào Củ thì bị giam tại
nhà cai Đỏ, Láng Thé.
Lúc quân Pháp chiếm Vĩnh Long thì Cha Nhơn, người gốc Cái Mơn đưọc
bề trên cử đến coi sóc họ Bãi Xan. Đang lúc khốn khó, Cha phải cố
gắng hết sức khuyên bổn đạo để họ đừng bỏ họ đạo mà đi. Cha có tập
lính đặng giữ họ. Trong nhà có língtráng đọi quản như một quan lớn
vậy. Lúc nầy ở Ba-si, Ba-se, sóc Ruộng, sóc Hồng Rai cũng tới xin
gia nhập vì họ bị cựu trào hà hiếp, cướp của đánh người. Ở Ba-si có
ông Tổng Chang và con là Chủ Lữ, ông Chủ Giồng và nhiều người đem
gia quyến, trâu bò, heo cuối, lúa thóc ra ở Bãi-Xan. Ở Ba-se có ông
nội hội đồng Tôn cũng đem nhiều gia đình theo và mấy người có của.
Sóc ruộng thì ông nội Phó Khiêm và nhiều gia thất ở Sóc Ruộng và sóc
Hồng Rai cũng theo lên ở Bãi-Xan nên Cha Nhơn có tập lính Thổ, Annam
chừng 3, 4 trăm. Cha đi đâu cũng trống chiêng rần rộ khiến ông
Thượng ở Gành Mù U nghe được dọa đem 4, 5 ngàn quân sang vây bắt tất
cả. Nghe vậy, Cha xin Quan Tây ở Vĩnh Long đem tàu xuống rước Ngài
cùng số đông bổn đạo về Vĩnh Long. Quan Thượng được tin Cha đi rồi
thì nhạo rằng: "Lãnh binh thất thủ thôi ta đánh làm chi đàn bà con
nít. Cách ít lâu, thời thế trở lại yên ổn nên Cha bề trên An (RP
Guilleu) khuyên bổn đạo Bãi Xan trở về lại trong họ. Trong số 1000
bổn đạo thì có khoảng 700 người bị đày trở về. Ban đầu, họ cất được
một nhà thờ gần chổ ông Phú ở. Sau nhờ có cha Hiển và ông Trùm Văn
cố gắng hết lòng nên bổn đạo cất được một nhà thờ khác, rộng rải hơn
gần mã vôi hiện giờ.
Cha
Martin Hiển:
Cha Hiển ngươì gốc Cái Nhum. Truớc khi đến
giúp họ Bãi Xan thì người đã giúp họ Bà Rịa một thời gian. Cha Hiển
là người đã có công lo lắng việc cất nhà thờ ở mã vôi và người cũng
cho cất thêm một nhà nguyện nhỏ gần chồ ống cống nhà thờ bây giờ để
thờ kính Đức Mẹ. Chổ nầy cũng là chổ mà Cha Điền cất nhà thờ đầu
tiên cho họ đạo, cũng là chổ cùng của rạch Giồng Tượng. Nơi nhà
nguyện Đức Mẹ nầy, hằng ngày cha Hiển lo việc dạy sách phần và giáo
lý cho trẻ nhỏ để chuẩn bị rước lễ Bao Đồng cũng như cho người lớn
để rửa tội chầu nhưng cho những ngươì ngoại trở lại đạo. Cha Hiển
cũng rất giỏi về nhạc lý nên người cũng đã lập được một ban hát khá
nổi tiếng đến nổi có nhiều người ở những nơi khác đến xin đưọc tập
hát với người.
Cha cũng có cho một số
đồng nhi nữ đi tu nhà phước Cái Mơn. Riêng có một chị tên là Cai Thị
Ngợi, đi tu nhà kính (nhà phước Tây) tại Sàigòn là người đã tạo nên
tiếng thơm cho Bãi Xan. Bà Ngợi là người nhờ ơn Chúa sáng soi có thể
biết được chuyện hậu lai của mình. Trước khi chết, người cho biết sẽ
có một bà phước nhà kính ở Pháp qua thế bà. Mà đúng vậy, sau khi người qua đời, bà
Nhứt đương kim nhà Kính ở Pháp lúc đó liền xin đổi qua Sàigòn.
Cha Hiển đã coi sóc họ
Bãi Xan nhiều năm trước lúc quân Pháp lấy Nam Kỳ cũng như sau đó.
Thời gian sau nầy, người yếu sức đi vì mắc phải bệnh lao. Một lần đi
Cái Nhum thăm bà con anh em, đến khi trở về thì người chết trên ghe
khi đến gần cù lao Dài. Lúc đó có cha Cordier đến thăm Bãi Xan nên
người làm lể an táng cha Hiển trong nhà thờ Đức Mẹ. 20 năm sau, Cha
Sở Báu lấy cốt cha Hiển đem về chôn trong nhà thờ mới.
Khi cha Hiển qua đời
thì có cố Gioan (RP Miche: sau làm Giám Mục), cố Long (RP
Bouilleveaux) và cố Hưỡn (RP Fontaine) thăm họ Bãi Xan.
Cha A. Claude
Péguet (1865-1871)
Sau khi cha Hiển mất thì có cha Péguet đến Bãi
Xan coi họ. Trước khi về Bãi Xan, Cha Péguet đã coi sóc họ ở Ba
Giồng được 3 năm. Người về Bãi Xan có mang theo một học trò tên là
Thích, sau được cha gửi về học trường Latinh (Chủng Viện) ở Sàigòn.
Cha Péguet ở trong phòng đồ lể, cũng là chổ ở của Cha Hiển khi xưa.
Nhờ có cha Đôminicô Vọng giúp nên người cũng coi sóc luôn họ Mai
Phốp, Bưng Trường, Vũng Liêm, Rạch Dầu, Tân Viên và Cam Son nữa. Cha
Péguet cũng có gửi nhiều trò đi học trường Latinh song chỉ có 3
người lên tới chức linh mục là Cha Thích, Cha Đưòng và Cha Quờn.
Cha Péguet cũng là
người có công lập nên một trường học cho Bãi Xan rồi đem thầy Thái,
là người công giáo ở miền ngoài vào để dạy học trò nam. Người cũng
lập thêm một trrường nữ do 2 dì phước cựu là chị Ngọc và chị Kế dạy.
Về việc dạy chầu nhưng (người lớn muốn học để trở lại đạo) thì có
thầy Latinh Thạch, là cháu ông trùm Lựu, với anh Rồng và anh Vựa,
cũng là học trò Latinh dạy.
Năm 1867, lúc ấy Pháp
đã lấy xong tỉnh Vĩnh Long, cha Péguet mới tính tới việc lập một nhà
thờ lớn hơn cho xứng với số bổn đạo hiện thời là 1.200 người.
Cha mới chọn một chổ
gần mé sông Cái, ngay đầu vàm rạch Giồng Tượng trên miếng đất mà ông
Cả Củ đã dâng cho họ đạo lúc trước. Gổ thì mua từ Thủ Dầu Một, còn
vôi gạch thì mua tại Mỹ Tho. Với sự phụ giúp của cha Errard, người
cho bắt đầu xây nhà thờ nầy từ năm 1867 đến năm 1869 mới hoàn tất
với phí tổn là 3.000 đồng, một số tiền quá lớn thời bấy giờ, có được
là do nhờ ơn Chúa và sự hy sinh cố gắng hết lòng của bổn đạo trong
họ.
Cha Péguet là một linh
mục hiền lành rất được lòng bổn đạo. Đến tháng 7 năm1871, cha bị
bệnh nặng nên được cha bề Trên đổi về Thủ Thiêm và gửi cha Thịnh,
đang ở Thủ Thiêm về coi họ Bãi Xan.
Cha Thịnh (RP
Thinselin) (1871-1877)
Cha Thịnh là một cha mới, vừa được gửi đến địa
phận được 2 năm thì đổi về Bãi Xan. Ngay năm đầu khi đến coi họ Bãi
Xan liền gặp gian nguy. Số là vào ngày 6 tháng 12 năm 1871, một cơn
trốt mạnh cuốn sập nhà thờ mới cất. Qua năm sau, (1872) vào ngày 24
tháng 10, một trận bảo thổi sập nhà cha sở. Vì vậy nên những người
lớn tuổi mới đặt tên 2 trận bão ấy là bão thánh Nicolas và trận thứ
hai là bão thánh Raphael. Cha Thịnh lại phải lo cất nhà thờ và nhà
cha sở lại. Cha Thịnh cũng có cho nhiều học trò đi học trường Latinh
nhưng chỉ có cha Phú là người được phong chức linh mục. Thời nầy có
2 dì thuộc nhà phước Cái Mơn dạy tại Bãi Xan là dì Xưng và dì Triều
(dì Triều sau làm bà Nhứt nhà phước).
Đến năm 1877, quan Đô
thống Thủy sư Dupérié xin Đức Cha Colombert cho 1 linh mục Pháp giúp
nhà thương quân đội tại Sàigòn thì Đức Cha mới vời cha Thịnh về đó.
Cha Hamm (1877)
Cha Hamm đến làm cha sở tạm họ Bãi Xan từ
tháng 5 đến tháng 10 năm 1877 trong khi đợi cha Báu (RP Leprince)
đang dưởng bịnh ở Hồng Kông về.
Cha Báu (RP
Leprince) (1877-1891)
Cha Báu là người rất thích đọc sách và ngưởng
mộ cảnh thiên nhiên. Một con chim bay ngang cũng làm người để tâm
suy nghĩ. Cha ở một căn nhà sàng gần như mục nát. Ngưới cho cất thêm
một căn gát nhỏ bên trên để dể bề yên lặng mà đọc sách. Cha cũng ra
công khuyên giải bổn đạo đủ điều nhưng chứng nào vẫn tật nấy, Bổn
đạo ít hay xưng tội rước lễ, quên việc kinh sách, không cần tới cha
linh hồn giúp đở nữa. Do đó, hay có những chuyện kiện tụng đất đai
xãy ra, rồi thì phe đảng đủ điều.
Biết rằng Bãi Xan cần
phải có một linh mục cứng cỏi đến coi sóc mới khuyến dụ được bổn đạo
nên năm 1891, cha xin đổi và cha Lân (RP Bourgeois) đến thay.
Cha Lân (RP
Bourgeois) (1891-1901)
Khi đức Cha Mỹ (Colombert) nhận thấy những họ
đạo hiện thời đã dược hưng thịnh thì ngài ra chỉ dụ khuyến khích các
cha sở hãy lo việc mở mang Giáo Hội bằng cách khuếch trương họ đạo
mình hay lập nên những họ đạo mới. Do đó, cha Lân mặc dù kẻ ngoại
xung quanh khu Bãi Xan hay kiếm chuyện gây khó khăn song người cũng
lập thêm được những họ mới như sau:
Họ Long
Hòa: Làng Long Hòa ở gần mé rạch Láng Thé, có một ít nhà có đạo
về rải rác ở đây. Thấy vậy, cha liền mua 1 miếng đât nhỏ và cất lên
một nhà thờ lợp lá. Song, bi những ngưười ngoại ghét nên họ đốt mất.
Cha liền cất cái khác. Sau nhờ có Biện Thính chí tình giúp đở nên
cha có gom thêm được vài nhà có đạo về ở thêm lại có vài gia đình
bên lương trở lại đạo nữa. Trong số nầy có gia đình Ông Văn công
Nhưng xin theo đạo. Trong khoảng 2 năm, cha đã rửa tội cho được 20
chầu nhưng trong họ nầy.
Họ
Long Thuận: Làng nầy ở trong ngọn
nhánh của rạch Láng Thé. Trong số gia đình trở lại đạo đáng kể nhất
là gia đình ông Tham Sung. Ông nầy đã bán rẽ cho cha Nghi (RP
Martin) một miếng đất ruộng 30 mẫu đặng lập họ. Sau cha dưng cho địa
phận làm của nuôi học trò trường Latinh.
Họ Đức Mỹ:
Ở phía tây làng Đức Mỹ có một miếng ruộng chưa ai khai phá nên cha
Lân vì thấy bổn đạo thiếu đất mần ăn nên xin Biện Tây cho khai khẩn.
Nhưng rủi thay, Biện Tây bị kẻ ngoại gây gổ kiện tụng. Bi thua, lại
thêm thất mùa nên dần dần bổn đạo bỏ hết. Măc dù vậy, nhà thờ vẩn
còn với lại cũng còn lại một ít chầu nhưng nên họ đạo Đức Mỹ cũng
tồn tại.
Họ Đức Hòa:
Làng nầy là làng ngoại, ở phía trong rạch Cái Hóp phía nam chợ Vũng
Liêm. Nguyên có một người ngoại có tiếng tăm trong làng tên là Thiệt
xin theo đạo để được Cha Lân che chở. Kết quả là họ Đức Hòa được
thành lập và sau nầy là một họ nhánh sung túc nhất trong số những họ
nhỏ thuộc sở Bãi Xan.
Họ Càng
Long: Chổ nầy là một miếng đất giồng rộng mênh mông và dân số
cũng đông đúc lắm. Cha Lân đã cố găng hết sức và có xin quan Quận
giúp đở, song cũng không thể nào làm cho đạo giáo mọc rể nơi Càng
Long nầy được. Sau cha phải dùng tiền của cha Nghi để lại mà mua 62
mẫu ruộng và cấp cho những ai theo đạo làm ăn thì họ đạo mới bắt đầu
phát triển từ đây. Sau, những mẫu ruộng nầy cũng được nhượng lại để
lo việc nuôi học trò trường Latinh.
Trong số những thầy trường Latinh cha Lân xin đến dạy các họ nhỏ Bãi
Xan lúc mới lập thì có: thầy Đặng, thầy Ngọc, thầy My, thầy Đa, thầy
Hào, thầy Xứ, thầy Cơ và thầy Quí.
Cha Lân đến Bãi Xan với
quyết tâm dẹp bỏ việc bổn đạo bê tha rượu chè, cờ bạc, thưa kiện và
một năm sau, cha đã thành công. Về việc tu sửa nhà thờ thì người
nhận thấy nhà thờ hiện tại quá nhỏ, sắp hư, lại ở gần mé sông Cái,
trước sau gì cũng bị sạt lở. Nhà cha Sở thì đã hư mục nhiều, không ở
đưọc nữa nên người chuẩn bị việc dời nhà thờ vô trong giồng, chổ đất
mà ông Cả Tường dâng, đó cũng là chổ mà trước cơn bắt đạo, đã cất
cái nhà thờ đầu tiên năm 1830. Họ đạo không đủ tiền nên cha xin phép
đức Cha cho bán ít đất ruộng của nhà chung để gây quỷ, Đức cha đồng
ý nhưng chỉ được bán cho bổn đạo mà thôi. Cha bán được 1500 đồng
đất ở rẩy dưới và 1600 đồng đất ở rẩy trên. Lúa ruộng cũng được tăng
lên mỗi năm đóng 1 công 4 giạ lúa. Tạm thời, cha cho cất một nhà thờ
tạm ở giồng Nhỏ,ngay trên miếng đất ông bà cha Phaolô Nghi đã dưng.
Cha đốn dừa làm cột. Nhà thờ tạm gồm 8 căn 1 chái ngay núi chổ núi
Calvaire bây giờ, mặt hướng sang núi Đức Mẹ. Cha lên Vĩnh Long xin
cái thành củ ở Mai Phốp để lấy gạch.
Cha Lân cho khởi công
xây nhà thờ mới vào năm 1893. Cha là người khéo tính toán nên không
đầy 3 năm sau, năm 1896, nhà thờ được hoàn tất với phí tổn là
10 ngàn đồng. Nhà thờ nầy được cất đa số bằng cây thau lau, mối mọt không ăn
được nên rất bền. Trong lễ làm phép nhà thờ có Đức Cha Để (Mgr.
Dépierre) chủ tế và chọn tên “Thánh Thất Hội” (Nhà Thờ Thánh Gia
Thất). Thợ vẽ ba chử Thánh Thất Hội là
ông Nguyễn Hữu Hào (ông chủ Hào là cha của bà Nam Phương Hoàng Hậu, vợ
vua Bảo Đại). Đến năm
1899, Cha mua thêm 3 cái chuông treo lên tháp nhà thờ làm cho họ đạo
được thêm rở ràng. Khi cất xong nhà thờ, cha liền lấy số gổ dư mang
về từ nhà thờ củ, cất thêm một căn nhà cha sở rộng rải, khang trang,
tốn hết 3.000 đồng. Nhà cha sở có 2 tầng, dưới xây bằng gạch, trên
lầu làm bằng cây. (Nền nhà lầu hiện tại là nền nhà lầu củ khi xưa).
Cha cũng dùng cây từ vựa lúa củ mà cất lên một căn nhà cho các dì
Phước Cái Mơn ở mà dạy học trò trong họ. Cha cũng lo tu bổ ruộng
vườn của nhà thờ, cho bổn đạo làm ruộng nhà chung rồi thu lúa ruộng
hằng năm. Người cho đắp bờ cho cao ráo để giúp bổn đạo đi lại dể
dàng. Cha cũng xin phép quan để đắp con đường từ Sóc Ruộng qua Ba
Trường, ngả ba Trà Gật, lên Rạch Dừa rồi về đến trước cửa nhà thờ.
Người cũng xin quan cho bắt cầu sắt ngã Ba Trường, cầu Trà Dư. Bổn
đạo thơ thới làm đủ ăn đủ mặc.
Giúp đở cha Lân lúc bấy
giờ có Ông Trùm Phạm Cử Nho và Ông Trùm Nảo. Ông trùm Nho mặc dù còn
nhỏ tuổi nhưng làm đến chức hương Cả trong làng và làm trùm Nhứt
trong họ. Riêng Ông Trùm Nảo là người đẵ giúp cha Lân rất đắt lực.
Cha Lân lo việc bày biến, sắp đặc, chỉ vẻ. Ông Trùm Nảo thì lo thực
hành cho thành công mọi việc. Ông cũng hay đi thăm hỏi, an ủi bổn
đạo, khuyến khích họ nên sốt sắng trong việc thò phượng Chúa. Trong
10 năm cha Lân giúp họ Bãi Xan, người có gửi trẻ đi học trường
Latinh rất nhiều còn nhi nử thì người cho đi tu nhà phước.
Đang hăng say lo lắng
việc trong họ đạo thì vào năm 1901, chừng 10 giờ tối, cha đang ngồi
kề cây cột nhà lầu gần tủ sắt để đọc kinh thì trời mưa lớn, sét đánh
từ cây thánh giá trên nhà lầu chạy xuống cây cột cha đang dựa làm
cây cột bể nát. Cha bị bất tỉnh. Sau đó cha được đưa về Pháp chửa
bệnh.
Các cha phó giúp cha sở
Lân là cha Lợi, cha Rồng và cha Khánh. Cha Lợi và cha Rồng là 2
người đã chỉ vẻ cho thợ Vây làm toà giảng và câu lơn rước lễ lúc bây
giò. Cha Ròng có trồng một số những cây sao chung quanh khu nhà thờ.
Cha Khánh thì lo việc tập nhạc, thu lúa ruộng và làm đập ở Càng Long
và Đức Hòa.
Cha Ba (RP Bar)
(1901-1911)
Sau khi cha Lân đi chửa bệnh bên Pháp thì cha
Ba được cử đến làm sở họ đạo Bãi Xan.
Cha có 2 con ngựa dùng để đi đây đó và lo cho kẻ liệc. Cha có tánh
rất nóng nảy. Để chấm dứt việc cờ bạc, ban đêm cha giả dân đánh bạc
đi lùng khắp nơi , ghi tên người đánh bạc rồi sai người đi báo cho
làng bắt mang tới nhà lầu đánh đòn 40 roi cho tội đánh bạc.
Lúc nầy có cha Hương ở
nghỉ tại Bãi Xan ít lâu. Khi trở về địa phận người tường trình cùng
Đức Cha về tính nóng nảy quá độ của Cha Ba nên vào năm 1911, Đức Cha
cho cha Ba về Pháp và cho cha Lộ về thay thế. Cha Lộ đang ở Hồi Xuân
về Trà Vinh rồi cởi ngựa về Bãi Xan. Đến nơi, chuông vang inh ỏi
mừng cha Lộ đến lảnh sở. Cha Ba đang trị 4 ngườicờ bạc, liền đánh
mỗi người 40 roi, rồi liệng cây roi trước mặt cha Lộ, xong lên ngựa
mà đi liền không nói một tiếng.
Cha Ba coi sóc họ Bãi
Xan đưọc 11 năm. Trong họ trở nên trù phú nhờ sự chăm sóc tận tình
của cha. Lúa ruộng được tăng lên mỗi năm 5 giạ, nhưng bổn đạo ai
cũng vui mừng vì hay được trúng mùa. Cha Ba cũng cho cất thêm trường
Nam và làm thêm nhà cho các Dì ở để dạy học.
Làm phó cha Ba có cha
Thông và phó nhì là cha Sion. Cha Thông qua Nhị Long mở rừng Giông,
đấp nền nhà thờ, đấp đập, mở mang họ Nhị Long rất nhiều. Đến năm
1907, khi ông Trùm Nho qua đời thì cha Ba đặt ông trùm Gioang là em
ruột cha Cường lên làm trùm nhứt trong họ.
Cha Lộ
(1911-1927)
Cha Lộ đến Bãi Xan vào năm 1911. Cha hay đi
các họ nhỏ, để Bãi Xan lại cho các cha phó coi. Cha Lộ rất hiền
lành. Gặp người nghèo khó thi hay an ủi, giúp đở tiền bạc, mua ruộng
đất giúp họ làm ăn. Những người ngoại đaọ cũng rất mến cha. Cha mua
đất ở Cái Hô xây nhà thờ bằng ngói. Cha xây nhà thờ Nhị Long cũng
bằng ngói. Cha cất dựa lúa ở Đức Hoà. Cha mua đất ở Rạch Rô, sửa bờ
sửa đập và mua thêm đất cho bổn đạo làm. Cha lập họ Càng Long, cất
trường học rồi rước dì phuớc Cái Mơn về dạy. Có dì Bảy Vui là dì
phước đầu tiên dạy ở đây. Cha cho cất nhà mồ côi và nuôi được 16 trẻ
mồ côi nam. Cha sắm đồ mộc cho mồ côi làm và sắm nông cụ để họ làm
ruộng. Đứa nào lớn thi cha lo viêc lập gia đình cho rồi giúp đở cho
ra riêng làm ăn.
Năm 1921, cha Chánh làm
phó, có xuất tiền lặp một ban nhạc chuẩn bị mừng lễ Bạc cha Lộ.
Trong thời nầy có xảy ra hỏa hoạn làm nhà thờ bị cháy phòng thánh
tới tận nóc nhà.
Năm 1924, cha Giàu làm
phó. Năm 1925 cha Linh làm phó 2 năm. Sau đó, có cha Xuân nhậm sở
Đức Hoà một năm rưởi rồi đổi nên cha Linh coi thế Đức Hoà và coi
luôn các họ Cá Hô, Đức Nhuận, Nhị Long và Càng Long. Cha Linh có xây
nhà thờ Càng Long nhờ số tiền 10.000 đồng dưng cúng của ông phán Tri
ở Trà Vinh. Nhà thờ nầy được cha sở Thiên làm phép.
Năm 1926, cha Hiền thế
cha Linh coi Đức Hoà. Cha Lộ và các cha phó cùng nhau lo mở mang các
họ của Bãi Xan. Đến khi cha Lộ đổi, thì tổng số ruộng đã mua đưọc
một trăm mấy chục mẫu. Số lúa ruộng thu được hàng năm trên ba chục
ngàn giạ. Bổn đạo thì mọi gia đình đều no đủ hồn xác. Đó là nhờ công
khó của các Cha vậy.
Cha Thông (1928)
Năm 1927, cha Thông nhận họ. Cha có cất
trưòng họ Nhị Long bằng ngói. Tính hay lo lắng nên cha hay bệnh hoạn.
Sau đó cha xin về họ Rạch Lọp.
Cha Thơm (1928-1929)
Năm 1928, cha Thơm về làm cha sở Bãi Xan. Cha
sửa đổi mọi sự trong họ. Cha cho đấp bờ từ ngã Ba Trường thẳng đến
Bào Năng nhập vô bờ cha Lân đấp hồi xưa (Bờ nầy bây giờ vẫn còn dùng,
gọi là lộ Bào Năng). Cha cho đóng tủ rửa tội, tủ đựng các sổ sách
trong họ, lo lập chợ, bắt cầu tàu.
Cha Thiên (1929-1939)
Năm 1929, cha Gioankim Thiên đến nhận họ. Dự
trử tiền bạc vài năm, cha cho xây lại nhà lầu đúc, tầng trên bằng xi
măng đá sạn, theo nền nhà lầu củ mà cha Lân xây lúc xưa. Xong cha
cho cất nhà bếp, hai đầu có hai tầng bằng ván sao. Nhờ cha Ròng
trồng những cây sao xung quanh nhà thờ lúc xưa nên cha Thiên làm hai
căn nhà mà khỏi phải mua cây. Xong việc ở Bãi Xan, cha ra kiểu và
giao cho cha Linh lo việc cất nhà thờ Càng Long. Khi ăn khánh thành
nhà thờ Càng Long, cha Thiên mướn cho bổn đạo Bãi Xan một chiếc tàu
và một chiếc ca-nô đê lên Càng Long ăn khánh thành. Đoàn tàu chạy
tới Càng Long lúc 12 giờ khuya. Sáng hôm sau, cha Thiên chủ tế lễ
mừng khánh thành, làm phép nhà thờ rất long trọng.
Được ít lâu, có lịnh
đổi cha Linh. Cha Hiền về thế coi họ Đức Hoà và các họ nhỏ. Cha Hiền
có công đấp bờ ngay cửa nhà thờ Đức Hòa ngang qua Giồng Ké và làm
thêm một sân banh nhỏ sau dùng làm đất thánh. Sau cha Hiền đến cha
Dư rồi đến cha Hai. Lúc nầy cha cất nhà thờ Đức Hòa và một cái nhà
cao cẳng lợp ngói, có phòng tiêu, phòng tắm đàng hoàn. Tới trào cha
Nam thì dở cái nhà ngói đó đi. Đó là đời cha Duông coi họ Bãi Xan.
Năm 1939, sau khi
lo cho các họ nhỏ, họ lớn xong thì dến lễ bạc của cha sở. Mọi người
trong họ chung lại lo cất nhà tiệc, bồi bờ lộ, làm ba cái cổng chào.
Sau đó, thì Bề Trên đổi cha về Cái Nhum. Còn cha Quang đang làm phó
thì được cho đi du học bên Pháp. Cha Diên thay thế cho đến đời cha
Duông coi họ. Năm 1940, Cha Thiên mất
và thi hài đưọc mang về an táng trọng thể trong đất thánh họ Bãi Xan.
Cha Tứ (1939)
Năm 1939, cha Tứ về nhậm sở. Cha về ít tháng
thì đến lễ các Thánh Nam Nữ. Hôm đó cha phó xin phép và được cha sở
đồng ý đưọc ở lại họ nhỏ, không về ngồi toà. Có một ông Biện cản cha
mà nói: “nếu cha cho phép thì một mình cha ngồi toà chết luôn đa”,
Cha trả lời: “chết bỏ”. Bửa đó, một mình cha Tứ phải ngồi toà cho
đến 11, 12 giờ khuya. Phần cha sẳn yếu trong người nên ngả bệnh luôn.
Phải về dưởng bệnh tại quê nhà là họ Cầu Ngang.
Cha
Duông (1940-1948)
Năm 1948, cha Duông về nhận họ. Cha già cả,
mắt yếu nên giao hết việc tiền bạc sổ sách cho cha phó là cha Hồng
đảm nhiệm. Cha Hồng lo mua đất ở Hương Nhượng, cất nhà thờ và rước
thầy dòng Cái Nhum đến dạy. Đức Cha có tới xem và rất vừa ý. Được
hai ba năm thì Nhựt đảo chánh. Sau Nhựt bị thất trận nên giao chính
quyền cho Việt Nam, rồi Pháp giựt lại. Nhà thờ bị trúng bom trong
Láng Thé bắn hư.
Sau đó, cha Hồng đổi.
Cha Nhiệm thay thế. Lúc đó có cha Án về ở để trốn Việt Minh. Cha phụ
giúp cho tới trào cha Thanh về nhậm sở.
Cha Nhạn
(1949)
Năm 1949, Cha Nhạn lảnh sở Bãi Xan nhưng chỉ
có 1 năm. Cũng năm nầy, cha Thanh về Bãi xan giúp cha sở ba bốn
tháng rồi làm sở thiệt thọ luôn.
Cha Thanh (1949)
Các Cha về
sau nầy:
Cha Raphae Nguyễn Văn Diệp (1956-1963)
Cha Hồng
Cha Bernard Khả
Cha Simon Hoà
Cha Tôma Vẽ
Cha Nghi ( -1975)
Cha Phaolồ Nguyễn Văn Thảnh (1975- )
